Bên cạnh những nghiên cứu cho thấy nhân sâm có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư, có một số nghiên cứu không cho thấy mối liên kết này tồn tại.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu đánh giá khả năng kháng tế bào ung thư của ginsenoside (thành phần hóa học chủ yếu tồn tại trong rễ nhân sâm, có hoạt tính sinh học cao) hay chiết xuất của nhân sâm trên các dòng tế bào nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, song cho đến nay chưa có thử nghiệm lâm sàng nào cho thấy hiệu quả điều trị bệnh ung thư của nhân sâm trên lâm sàng.

Đang xem: Ung thư uống sâm được không

Tuy vậy, đã có một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy nhân sâm có tác dụng hỗ trợ điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống người bệnh ung thư.

Nhân sâm có làm giảm nguy cơ mắc ung thư?

Nghiên cứu bệnh – chứng trên 1.987 người bệnh Hàn Quốc cho thấy sử dụng hồng sâm giúp giảm nguy cơ mắc phải ung thư ác tính bao gồm ung thư phổi và ung thư đại trực tràng. Với các loại ung thư vú, tử cung, tuyến giáp hay bàng quang trên phụ nữ, kết quả phân tích không cho thấy nó làm giảm nguy cơ.

Kết quả từ một nghiên cứu khác trên 4.634 người Hàn Quốc 40 tuổi trở lên cho thấy những người dùng nhân sâm có tỷ lệ mắc ung thư thấp hơn so với những người khác. Ngoài ra, dùng hồng sâm 01 g/tuần trong vòng 3 năm liên tiếp đối với người bệnh bị viêm dạ dày mãn tính có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư đường tiêu hóa trong vòng 8 năm theo dõi sau đó.

Tuy vậy, cạnh những nghiên cứu cho thấy nhân sâm có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư, có một số nghiên cứu không cho thấy mối liên kết này tồn tại. Phân tích gần 75.000 phụ nữ độ tuổi từ 40 đến 70 trong một nghiên cứu về sức khỏe phụ nữ Thượng Hải (Trung Quốc) cho thấy không có mối liên kết giữa giảm hay tăng nguy cơ mắc ung thư tiêu hóa và sử dụng các loại nhân sâm khác nhau.

Một phân tích khác trên hơn 35.000 nam giới độ tuổi từ 50 đến 76 của nghiên cứu VITAL, cho thấy nhân sâm không ảnh hưởng tới việc tăng hay giảm nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến.

Nhân sâm có làm giảm tỷ lệ tử vong của người bệnh ung thư?

Một nghiên cứu của nhóm tác giả Cui Y. và cộng sự đã đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm trên 1.455 người bệnh ung thư vú thông qua bộ câu hỏi khảo sát để xác định các đầu ra liên quan đến ung thư vú. Số người bệnh này được tuyển chọn từ trung tâm Ung thư vú ở Thượng Hải (Trung Quốc) từ 08/1996 đến tháng 3/1998.

Kết quả cho thấy những phụ nữ ung thư vú dùng nhân sâm bên cạnh phẫu thuật/xạ trị/hóa trị có nguy cơ tái phát khối u và nguy cơ tử vong thấp hơn so với những người chưa từng dùng nhân sâm.

Dùng hồng sâm với mức liều 4,5g mỗi ngày trong vòng 6 tháng sau khi phẫu thuật và hóa trị trên 42 người bệnh ung thư dạ dày giai đoạn III cũng được chứng minh làm giảm đáng kể tái phát khối u trong 4,5 năm theo dõi sau đó.

Ở một nghiên cứu khác trên hơn 6.000 người bệnh ung thư tuổi trên 55, theo dõi trong 18 năm của nhóm tác giả Sang-Wook Yi và cộng sự cho thấy: nhân sâm làm giảm tỷ lệ tử vong trên nam giới, nhưng không giảm trên nữ giới.

Nhân sâm liên quan ra sao đến chất lượng cuộc sống người bệnh ung thư?

*

Cũng đã có một số nghiên cứu đánh giá vai trò của nhân sâm trong cải thiện chất lượng cuộc sống trên người bệnh ung thư, thông qua bộ câu hỏi khảo sát chất lượng cuộc sống người bệnh trên các tiêu chí về sức khỏe tinh thần, thể lực, thích nghi xã hội. Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu vẫn còn nhiều mâu thuẫn, chưa thể đi đến thống nhất.

Nghiên cứu trên 1.455 người bệnh ung thư vú được tuyển chọn từ trung tâm ung thư tại Thượng Hải (Trung Quốc) cho thấy nhóm người bệnh dùng nhân sâm có điểm chất lượng cuộc sống được cải thiện hơn so với nhóm người bệnh không dùng. Chất lượng cuộc sống được đánh giá thông qua bộ câu hỏi chất lượng chung gồm 74 tiêu chí (General Quality of Life Inventory – 74) được chia thành 4 nhóm: sức khỏe tinh thần, thể chất, khả năng hòa nhập xã hội và tình trạng kinh tế.

Còn một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đối chứng, mù đôi khác được thực hiện trên 53 người bệnh ung thư. Số người bệnh chia làm hai nhánh, một nhánh dùng nhân sâm mức liều 03 g/ngày liên tiếp trong 12 tuần; nhánh kia dùng giả dược thay thế. Kết quả cho thấy nhóm người bệnh dùng nhân sâm có điểm chất lượng cuộc sống cao hơn nhóm còn lại.

Nhân sâm mức liều 02 g/ngày trong vòng 16 tuần cũng được chứng minh cải thiện tình trạng ốm yếu, khả năng vận động và chất lượng cuộc sống trên người bệnh ung thư đại trực tràng được hóa trị với oxaliplatin.

Năm 2012, nhóm tác giả Bao PP và cộng sự đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng của nhân sâm trên hơn 4.000 phụ nữ từ trung tâm Ung thư vú tại Thượng Hải. Kết quả nghiên cứu này lại cho thấy sử dụng nhân sâm với thời gian từ 6 tháng, 18 tháng hay 36 tháng liên tục sau khi bị chẩn đoán ung thư vú không giúp cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho người bệnh

Như vậy, có thể nói cho đến hiện tại vẫn chưa có đủ bằng chứng lâm sàng để khẳng định tác dụng điều trị ung thư của nhân sâm. Đồng thời, các bằng chứng lâm sàng chứng minh khả năng hỗ trợ điều trị, giảm nguy cơ mắc bệnh cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống người bệnh ung thư còn nhiều điểm bất đồng và chưa sáng tỏ.

Tuy nhiên, với các nghiên cứu trên, chúng ta cũng thấy rõ không thể phủ nhận hoàn toàn tiềm năng hỗ trợ điều trị ung thư của nhân sâm kh dùng ở mức liều hợp lý.

Vậy câu hỏi là: có nên sử dụng nhân sâm bên cạnh các liệu pháp điều trị chính thống khác trên người bệnh ung thư hay không? Nếu được sử dụng thì những nguy cơ người bệnh có thể gặp phải là gì?

Tác dụng phụ khi sử dụng nhân sâm

Nhân sâm khá an toàn khi sử dụng ở mức liều 03 g đến 09 g dạng bột rễ mỗi ngày. Nhưng nếutăng mức liều này lên hay sử dụng thời gian dài trên 6 tháng thì người sử dụng có thể gặp một số tác dụng không mong muốn.

Năm 1979, Siegel và cộng sự đã lần đầu tiên nhắc đến hội chứng “lạm dụng nhân sâm” với các biểu hiện kích thích thần kinh, rối loạn tâm thần, thay đổi hành vi, nổi ban đỏ ở da, tiêu chảy trên những người dùng nhân sâm ở mức liều 15 g mỗi ngày.

Những người khỏe mạnh sử dụng mức liều 200 mg dịch chiết nhân sâm mỗi ngày trong 3 tuần liên tiếp để hỗ trợ chức năng tim mạch thì bị nôn và buồn nôn.

Người bệnh đái tháo đường týp 2 có dùng nhân sâm thì bị hạ đường huyết, đau đầu, nhìn mờ, thiếu máu và kích động.

Theo Lee NH và cộng sự, những người bệnh dùng nhân sâm trong các thử nghiệm lâm sàng có thấy xuất hiện những triệu chứng khó chịu đường tiêu hóa như nôn, buồn nôn, táo bón, tiêu chảy.

Người bệnh bị bệnh bạch cầu cấp được điều trị với imatinib nếu có dùng nhân sâm thì xuất hiện độc tính gan nặng. Vì vậy người bệnh cần tránh sử dụng đồng thời imatinib và Nhân sâm.

Tương tác thuốc khi dùng cùng với nhân sâm

Tương tác thuốc sử dụng cùng nhân sâm hiếm khi xảy ra, tuy nhiên một số nghiên cứu về dược lý cho rằng cần phải giám sát việc dùng đồng thời nhân sâm cùng với warfarin hay một số thuốc chuyển hóa qua CYP3A; hay các thuốc là cơ chất của P-glycoprotein (P-gp), một loại bơm tống thuốc từ tế bào trở lại lòng ruột. Cơ chất của P-gp bao gồm rất nhiều thuốc có khoảng điều trị hẹp như digoxin, các thuốc ức chế miễn dịch cyclosporin, tacrolimus, các thuốc điều trị ung thư như vincristin, paclitaxel, các thuốc kháng retrovirus như ritonavir, saquinavir…

Ngoài ra, nhân sâm có khả năng ảnh hưởng tới tác dụng của một số loại thuốc điều trị trầm cảm, thuốc hạ đường huyết, thuốc hạ lipid máu hay liệu pháp hormon. Những người bệnh đang được điều trị với thuốc chống kết tập tiểu cầu, thuốc chống đông máu hay warfarin cũng không nên dùng nhân sâm, để tránh nguy cơ xuất huyết.

Ở mặt tốt, một số ginsenoside trong nhân sâm có tác dụng ngăn cản quá trình kháng thuốc trong phác đồ hóa trị liệu do tế bào ung thư gây ra. Ginsenoside Rh2 được chứng minh có khả năng làm tăng hiệu quả hóa trị liệu trên người bệnh ung thư. Tuy nhiên, ginsenoside Rh2 được hấp thu qua đường tiêu hóa rất kém (dưới 5%), điều này làm hạn chế hiệu quả sử dụng của nó.

Xin lưu ý, bài viết này chỉ được xem như một tài liệu tham khảo, cách tiếp cận và lý giải vấn đề trong bài viết không nhằm mục đích tuyên truyền chữa trị bất cứ bệnh nào. Trong mọi trường hợp điều trị bệnh, hãy tham vấn ý kiến chuyên môn y tế để hiểu rõ về bệnh tình của bạn.

Nhân sâm châu Á tốt hơn nhân sâm châu Mỹ

Nhân sâm được xếp vào một trong bốn loại thuốc quý (Sâm – Nhung – Quế – Phụ) từ hơn 2.000 năm trước. “Thần nông bản thảo” có ghi chép: Vị hơi ngọt, tính hơi lạnh, tác dụng cải tiến chức năng lục phủ ngũ tạng, loại bỏ những điều không tốt, sáng mắt, bổ trí não, tăng thông minh, giúp cơ thể nhẹ nhõm.

Hiện nay trên thế giới có 11 loài Nhân sâm thuộc chi Panax đã được nhận dạng. Nhân sâm châu Á gồm có Panax notoginseng, Panax japonica và Panax ginseng; Nhân sâm ở châu Mỹ như Panax quinquefolius. Nhân sâm có thành phần hóa học đa dạng. Ngoài các protein và carbohydrate, nhân sâm còn chứa tinh dầu dễ bay hơi, các ginsenoside (ginseng saponins), các amino acid, vitamin và acid béo. Ginsenoside là thành phần hóa học chủ yếu tồn tại trong rễ, có hoạt tính sinh học cao. Đã có hơn 100 loại ginsenoside được phân lập từ các loại nhân sâm khác nhau.

Nhân sâm châu Á Panax ginseng chứa 38 loại ginsenoside khác nhau, trong khi nhân sâm Mỹ Panax quinquefolius chỉ có 19 loại. Hơn nữa, ngoài saponin, Panax ginseng còn chứa nhiều hoạt chất khác gồm hợp chất K, acid polysaccharide và hợp chất polyethylene, được cho rằng có lợi với sức khỏe hơn so với Panax quinquefolius. Cho tới thời điểm hiện tại, Panax ginseng được tiến hành nghiên cứu nhiều và sử dụng phổ biến nhất trong tất cả các loại nhân sâm.

Hiện tại, nhân sâm được trồng chính ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và một số nước khác. Do nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, nguồn nhân sâm trở nên khan hiếm hơn. Để đảm bảo nguồn cung, đáng buồn là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất hóa học kích thích dần trở nên phổ biến.

Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đã được phát hiện trong một số sản phẩm nội địa Hàn Quốc có nguồn gốc sản xuất từ nhân sâm 4 – 6 tuổi trồng ở bốn vùng nông nghiệp khác nhau của tỉnh Jeonnam của Hàn Quốc.

Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cũng phát hiện ra 22 trong số 31 loại sâm nhập khẩu có nguồn gốc từ Canada, Hồng Kông, Trung Quốc, và Hàn Quốc chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật dễ bay hơi. Các sản phẩm này ở dạng rễ khô, bột, dịch chiết xuất lỏng hay cô đặc và được đóng gói ở Hoa Kỳ.

Việc trộn tân dược vào các sản phẩm nhân sâm để người bệnh thấy được tác dụng nhanh chóng là hết sức nguy hiểm, liên quan đến tính mạng người dùng, cần được cơ quan quản lý giám sát chặt chẽ.

Xem thêm:

Cố vấn khoa học:

Nguyễn Hồng Vũ, TS (Viện nghiên cứu City of Hope, California, Hoa Kỳ)

Lê Anh Phương, TS (ĐH Quốc gia Singapore, Singapore)

Nguyễn Trương Đức Hoàng, ThS.BS (Đại học Hiroshima, Nhật Bản)

Ruy Băng Tím mong muốn xây dựng một website khoa học đáng tin cậy, chuyên cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về ung thư. Các bài viết đều được các tác giả tra cứu kỹ lưỡng trước khi viết, có dẫn nguồn đầy đủ để người đọc có thể tham khảo.

Tài liệu tham khảo

1. Trần Đáng (2019), Thực phẩm chức năng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, pp. 960-965.

2. Attele A. S., Wu J. A., et al. (1999), “Ginseng pharmacology: multiple constituents and multiple actions”, Biochem Pharmacol, 58(11), pp. 1685-93.

3. Baeg I. H., So S. H. (2013), “The world ginseng market and the ginseng (Korea)”, J Ginseng Res, 37(1), pp. 1-7.

4. Bao P. P., Lu W., et al. (2012), “Ginseng and Ganoderma lucidum use after breast cancer diagnosis and quality of life: a report from the Shanghai Breast Cancer Survival Study”, PLoS One, 7(6), pp. e39343.

5. Bilgi N., Bell K., et al. (2010), “Imatinib and Panax ginseng: a potential interaction resulting in liver toxicity”, Ann Pharmacother, 44(5), pp. 926-8.

6. Brasky T. M., Kristal A. R., et al. (2011), “Specialty supplements and prostate cancer risk in the VITamins and Lifestyle (VITAL) cohort”, Nutr Cancer, 63(4), pp. 573-82.

7. Bucci L. R. (2000), “Selected herbals and human exercise performance”, Am J Clin Nutr, 72(2 Suppl), pp. 624s-36s.

8. Caron M. F., Hotsko A. L., et al. (2002), “Electrocardiographic and hemodynamic effects of Panax ginseng”, Ann Pharmacother, 36(5), pp. 758-63.

9. Choi K. T. (2008), “Botanical characteristics, pharmacological effects and medicinal components of Korean Panax ginseng C A Meyer”, Acta Pharmacol Sin, 29(9), pp. 1109-18.

10. Cui Y., Shu X. O., et al. (2006), “Association of ginseng use with survival and quality of life among breast cancer patients”, Am J Epidemiol, 163(7), pp. 645-53.

11. FDA, Ginseng Dietary Supplements Special Survey (CFSAN Assignments and Field Regulatory Monitoring for FY 2003 and FY 2004). 2008.

12. Jia W. W., Bu X., et al. (2004), “Rh2, a compound extracted from ginseng, hypersensitizes multidrug-resistant tumor cells to chemotherapy”, Can J Physiol Pharmacol, 82(7), pp. 431-7.

13. Kamangar F., Gao Y. T., et al. (2007), “Ginseng intake and gastric cancer risk in the Shanghai Women”s Health Study cohort”, Cancer Epidemiol Biomarkers Prev, 16(3), pp. 629-30.

14. Kim J. H., Park C. Y., et al. (2006), “Effects of sun ginseng on subjective quality of life in cancer patients: a double-blind, placebo-controlled pilot trial”, J Clin Pharm Ther, 31(4), pp. 331-4.

15. Kim S., Shin B. C., et al. (2011), “Red ginseng for type 2 diabetes mellitus: a systematic review of randomized controlled trials”, Chin J Integr Med, 17(12), pp. 937-44.

16. Lee N. H., Son C. G. (2011), “Systematic review of randomized controlled trials evaluating the efficacy and safety of ginseng”, J Acupunct Meridian Stud, 4(2), pp. 85-97.

17. Nag S. A., Qin J. J., et al. (2012), “Ginsenosides as Anticancer Agents: In vitro and in vivo Activities, Structure-Activity Relationships, and Molecular Mechanisms of Action”, Front Pharmacol, 3, pp. 25.

18. Park H. J., Kim D. H., et al. (2012), “Ginseng in traditional herbal prescriptions”, J Ginseng Res, 36(3), pp. 225-41.

19. Park Y. S., Abd El-Aty A. M., et al. (2007), “Pesticide multiresidue analysis in Panax ginseng (C. A. Meyer) by solid-phase extraction and gas chromatography with electron capture and nitrogen-phosphorus detection”, Biomed Chromatogr, 21(1), pp. 29-39.

20. Posadzki P., Watson L., et al. (2013), “Herb-drug interactions: an overview of systematic reviews”, Br J Clin Pharmacol, 75(3), pp. 603-18.

21. Ramanathan M. R., Penzak S. R. (2017), “Pharmacokinetic Drug Interactions with Panax ginseng”, Eur J Drug Metab Pharmacokinet, 42(4), pp. 545-557.

22. Richard A. Helms, David J. Quan, et al. (2006), Textbook of Therapeutics Drug and disease management Lippincott William & Wilkins, pp.

23. Siegel R. K. (1979), “Ginseng abuse syndrome. Problems with the panacea”, Jama, 241(15), pp. 1614-5.

24. Suh S. O., Kroh M., et al. (2002), “Effects of red ginseng upon postoperative immunity and survival in patients with stage III gastric cancer”, Am J Chin Med, 30(4), pp. 483-94.

25. Wang C. Z., Anderson S., et al. (2016), “Red ginseng and cancer treatment”, Chin J Nat Med, 14(1), pp. 7-16.

26. Yang Z., Gao S., et al. (2011), “Enhancement of oral bioavailability of 20(S)-ginsenoside Rh2 through improved understanding of its absorption and efflux mechanisms”, Drug Metab Dispos, 39(10), pp. 1866-72.

27. Yeul Hong Kim, Yoojoo Lim, et al. (2017), “A Study of Korean Red Ginseng for Evaluation of Improvement of Cancer-related Fatigue in Patients With Colorectal Cancer With Chemotherapy: A Randomized, Double-blind, Placebo-Controlled, Parallel, Multicenter Trial”, Journal of Clinical Oncology, 35(15), pp. 1008- 1010.

28. Yi S. W., Sull J. W., et al. (2009), “Association between ginseng intake and mortality: Kangwha cohort study”, J Altern Complement Med, 15(8), pp. 921-8.

29. Yun T. K., Choi S. Y. (1998), “Non-organ specific cancer prevention of ginseng: a prospective study in Korea”, Int J Epidemiol, 27(3), pp. 359-64.

Xem thêm:

30. Yun T. K., Choi S. Y., et al. (2001), “Epidemiological study on cancer prevention by ginseng: are all kinds of cancers preventable by ginseng?”, J Korean Med Sci, 16 Suppl, pp. S19-27.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *